Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2011

Tây Nguyên 2

Gần đây tổ chức Theo dõi nhân quyền(Human Rights Watch) đã đưa ra một bản báo cáo về việc chính phủ Việt Nam gia tăng đàn áp những người dân tộc Tây nguyên theo đạo Tin lành. Và chính phủ Việt Nam thường cáo buộc những người dân tộc Tây nguyên theo đạo Tin lành hoạt động ly khai nhằm thành lập tôn giáo Tin lành Đề ga. Tôi đã có hơn 3 năm được sống và sinh hoạt chung với những người Tin lành Tây nguyên tại nhà tù Nam Hà. Tôi tìm hiểu về cuộc sống, văn hoá, đức tin và đặc biệt là nguyên nhân tại sao có các cuộc biểu tình năm 2001 và 2004 đã dẫn đến hàng trăm người Tin lành Tây nguyên bị bắt giam trong tù, hàng ngàn người phải chạy trốn đi tị tạn ở nước ngoài. Tôi xin giới thiệu đến các độc giả của báo Người Việt và những người quan tâm khác sự thật này.


Tây nguyên là vùng đất nằm ở khu vực cao nguyên miền trung của Việt Nam, gồm 5 tỉnh Đắc lắc, Gia lai, Kon tum, Đắc nông và Lâm đồng. Thời kỳ Việt Nam Cộng Hoà được gọi Cao nguyên trung phần. Trước đó thời kỳ vua Bảo Đại(trước 1954) được gọi là Hoàng triều Cương thổ và được hưởng qui chế riêng. Các thế hệ người dân tộc Tây nguyên luôn nhớ về thời kỳ mà cha ông họ được hưởng qui chế tự trị đó.
Diện tích Tây nguyên rộng 54.639 km2, dân số Tây nguyên gồm 5 tỉnh hiện nay khoảng 5.200.000 người. Trong khi đó vào năm 1976 dân số Tây nguyên là 1.225.000 người, với 18 dân tộc, gồm có 853.820 người các sắc tộc thiểu số(chiếm 69,7% dân số). Nhưng đến năm 2004, dân số Tây nguyên đã tăng lên đến 4.668.142 người, gồm 46 dân tộc. Trong đó dân tộc thiểu số là 1.181.337 người( chiếm 25,3% dân số). Một phần là gia tăng dân số tự nhiên, còn phần lớn là gia tăng dân số cơ học. Trước năm 1975, người dân tộc như Ê đê, Gia rai, Mnông, Ba na là những dân tộc chiếm đa số tại Tây nguyên, họ làm chủ cả vùng đất Tây nguyên về đất đai, rừng, tài nguyên, văn hoá, đặc biệt về tôn giáo. Cơ đốc giáo được đưa vào Tây nguyên từ cuối những năm 30 của thế kỷ trước và đã nhanh chóng được các dân tộc Tây nguyên tiếp nhận. Những người theo Cơ đốc giáo đã chiếm đa số và ảnh hưởng sâu sắc đến đến đời sống văn hoá, tín ngưỡng của người dân tộc Tây nguyên. Sự di dân ồ oạt từ các khu vực khác đến Tây nguyên từ năm 1976 đã khiến cho những người dân tộc Tây nguyên từ đa số thành thiểu số. Đất đai của tổ tiên họ đã khai phá biết bao đời để lại thì một phần bị chính quyền sát nhập vào các nông trường quốc doanh mà không được bồi thường hoặc được bồi thường không thoả đáng, một phần bị các quan chức chính quyền địa và người của họ cướp đoạt một cách trắng trợn. Người dân tộc Tây nguyên chỉ còn lại một phần đất nhỏ bé của mình. Đồng thời sự gia tăng dân số quá nhanh dẫn đến nạn tàn phá rừng, huỷ hoại môi trường sống làm ảnh hưởng tiêu cực đến đến đời sống văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo của người Tây Nguyên. Tham nhũng và sự thiếu đầu tư của chính quyền đến cơ sở hạ từng từ sau năm 1975 cho đến cuối thập niên 90 đã bần cùng hoá người Tây nguyên.

Ngay sau khi thống nhất được đất nước vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền đã đối xử bất bình đẳng với những người dân tộc Tây nguyên theo Cơ đốc giáo, chính quyền xoá bỏ nhiều nhà thờ, bắt giam nhiều mục sư, truyền đạo, chấp sự của Hội Thánh, không cho các tín đồ nhóm họp, sinh hoạt tôn giáo. Đức tin của những người Tây nguyên là vô cùng mạnh mẽ. Sự đè nén và ức hiếp của chính quyền về tôn giáo, đất đai bị tước đoạt, môi trường sống của họ bị huỷ hoại đã buộc những người dân tộc Tây nguyên như Ê đê, Gia rai, Ba na, Mnông theo Cơ đốc giáo ở các tỉnh Đắc lắc,Gia lai, Đắc nông, Phú yên đứng lên biểu tình đòi tự do tôn giáo, nhân quyền, đòi chính quyền trả lại đất đai đã chiếm giữ của họ. Cuộc biểu tình vào tháng 2 năm 2001, đã tập chung được hàng chục nghìn người, kéo dài trong nhiều ngày. Chính quyền đã huy động cảnh sát và quân đội thẳng tay đàn áp những người biểu tình, rất nhiều người bị thương, bị mất tích, hàng ngàn người bị bắt và thẩm vấn, hàng ngàn người phải chạy trốn vào rừng, chạy sang Căm pu Chia xin tị nạn. Trong số hàng ngàn người bị bắt và thẩm vấn, sau đó có khoảng 500 người bị truy tố và xét xử từ 2 năm đến 18 năm tù về các tội phá hoại chính sách đoàn kết(điều 87), tội phá rối an ninh(điều 89). Còn những người khác bị giam từ 3 đến 9 tháng không xét xử và được phóng thích.
Sau vụ việc trên chính quyền không thay đổi chính sách về tôn giáo, họ vẫn gia tăng cấm đoán và đàn áp những người Cơ đốc giáo nhóm họp và sinh hoạt tôn giáo. Chính quyền tiến hành các chiến dịch truyền thông ở trong và ngoài nước cáo buộc những người Cơ đốc giáo Tây nguyên theo Fulro(một tổ chức đấu tranh vũ trang của người Tây nguyên trước năm 1975 đã không còn tồn tại), vu khống cho họ hoạt động dưới danh nghĩa tôn giáo nhằm thành lập nhà nước Đề ga, tin lành Đề ga.
Những người chạy trốn vào rừng và những người dân tộc Tây nguyên không cam chịu sự áp bức về tôn giáo và sự cáo buộc của chính quyền. Tháng 4 năm 2004, họ tiến hành cuộc biểu tình lần thứ 2. Như lần trước chính quyền thẳng tay đàn áp họ, hàng trăm người bị bắt và bỏ tù, nhiều người chạy trốn sang Căm pu Chia. Sau đó có rất nhiều người chạy trốn và bắt trong các năm sau này từ 2005 đến 2008. Họ tiếp tục bị truy tố và xét xử với các tội danh như: Tội phá hoại chính sách đoàn kết(Đ87); tội phá rối an ninh(Đ89); tội trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền(Đ91); tội chống người thi hành công vụ(Đ257).

Trong các vụ bắt giữ những người Tây nguyên, có rất nhiều người bị tra tấn, dùng nhục hình, ép cung. Tất cả các vụ án đều xét xử kín, không có thân nhân tham dự, không có luật sư bào chữa. Sau khi xét xử xong, họ đều bị đưa đi các trại giam rất xa gia đình của họ. Thời điểm đông nhất tại trại Nam Hà cách Tây nguyên hơn 1200 km có hơn 200 người Tin lành Tây nguyên bị giam giữ. Trại giam Thanh hoá cách Tây nguyên hơn 1000 km có khoảng 100 người.
Việc giam giữ họ cách xa gia đình là một việc làm rất vô nhân đạo, hầu hết các gia đình thân nhân của họ đều rất khó khăn về kinh tế, hằng năm chỉ ra thăm được một lần,với chi phí tốn kém, có những gia đình 2 hoặc 3 năm mới có điều kiện đến thăm một lần. Đồng thời không phải tất cả mọi thành viên đều đi được, chỉ một người đại diện cho cả gia đình gồm bố mẹ, con cái, anh chị em. Việc không được thăm gặp thường xuyên làm cho tình cảm vợ chồng, anh chị em, cha mẹ và con cái bị tổn thương. Trong khi đó những người bị giam giữ đều ở độ tuổi từ 20 đến 50. Họ có rất nhiều con nhỏ, cần sự chăm sóc,dạy dỗ của người cha.
Khi họ bị giam giữ tại trại giam cũng bị đối xử bất công, không được cung cấp đủ nước sạch cho nhu cầu sinh hoạt, phải lao động ngày 8 tiếng, làm đủ định mức sản phẩm. Chống đối lao động thì bị xử phạt cùm. Với điều kiện lao động, sinh hoạt, cải tạo như nhau, xếp loại như nhau, nhưng khi giảm án thì những người Tây nguyên bao giờ cũng chỉ bằng ½ mức giảm án của các tù chính trị và tù thường phạm khác. Có nhiều trường hợp còn không được giảm án mà không có lý do.
Việc sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong trại giam thường xuyên bị đe dọa, họ không được nhận Kinh thánh, Thánh ca, và các sách tôn giáo. Mặc dù trong nôi qui trại giam không cấm.
Hàng tháng họ viết thư về nhà và trại giam có trách nhiệm gửi qua bưu điện về gia đình cho họ, những khi gia đình lên thăm thì được biết là rất hiếm khi gia đình của họ nhận được thư.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét